KÝ ỨC VỀ MỘT CON NGƯỜI – Đỗ Hồng Ngọc

Tôi có may mắn được quen BS Nguyễn Khắc Viện từ hơn mười năm trước, vào khoảng năm 1985, khi ông ghé thăm bệnh viện Nhi Đồng 1, nơi tôi đang công tác. Lần đó ông nhờ tôi viết một bài về Sốt Xuất Huyết Dengue ở trẻ em để ông đăng vào tập sách Tìm Hiểu Trẻ Em của Nhà xuất bản Phụ Nữ do ông làm chủ biên. Từ đó, tôi nhiều lần được gặp ông, đặc biệt trong những năm tôi và BS Lâm Xuân Điền phụ trách Bộ môn Xã hội học – Tâm lý học cho Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ Y tế TP.HCM. Ông đã là cố vấn cho chúng tôi trong những bước đầu bỡ ngỡ để đưa một bộ môn mới vào một trường đào tạo bác sĩ kiểu mới, bác sĩ đa khoa hướng về cộng đồng. Ông chú ý đặc biệt vào việc thực tập. Ông nói phải xây dựng một bộ hồ sơ bệnh án mẫu về môn tâm lý trẻ em, và mỗi sinh viên phải làm chừng 10 bệnh án như thế. Ông sợ rằng giảng dạy tâm lý không khéo thì thành lý thuyết suông, xa rời thực tế. Nhiều lần tôi đến thăm ông lúc ông “dưỡng sức” tại Viện Pasteur. Thấy hai ông bà (ông và vợ là bà Nguyễn Thị Nhất) chăm nom sức khỏe cho nhau, vừa cùng làm việc với nhau thật là “tâm đầu ý hợp”. Có lần ông gởi tặng tôi cuốn Từ điển tâm lý vừa in, giải thích cho tôi rõ những từ đầy sáng tạo, những ý niệm phức tạp được diễn đạt bằng một từ tiếng Việt tương đương, chính xác mà dễ hiểu, chẳng hạn phân biệt lo hãi, lo âu, lo sợ... Tôi thực sự khâm phục về tài dùng tiếng Việt của ông khi ông dịch chữ placebo trong y học. Chữ này có người dịch là “giả dược”, nhưng dịch như vậy thì “Tàu” quá, không phải Việt. Có người dịch là “thuốc giả” thì càng sai, vì đây không phải thuốc giả, mà là thuốc giống như thuốc thiệt nhưng vô hại dùng để thử nghiệm lâm sàng, so sánh với thuốc thật. Ông đã tìm ra một chữ thật tuyệt vời là “thuốc vờ” để dịch chữ placebo đó. Thuốc vờ thì giống như thật mà không phải thật. Tôi nghĩ rằng phải là một người đã từng dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp như ông mới có được những tìm tòi, suy nghĩ về ngữ nghĩa tiếng Việt tuyệt vời đến vậy. Sau này, mỗi lần ra Hà Nội công tác, dù bận bịu thế nào tôi cũng đến thăm ông. Ông rất ân cần, niềm nở, vui vẻ nói chuyện hàng giờ không dứt dù đã yếu, mệt. Có lần người lái xe ôm chở tôi từ Giảng Võ đến Nguyễn Chế Nghĩa trong một buổi tối trời mưa to đã hỏi tôi có phải đến thăm BS Nguyễn Khắc Viện không, và ông ta đã chịu khó đợi tôi gần cả giờ mà không phàn nàn, dù trước đó tôi hứa vào thăm chỉ chừng mười lăm phút. Lần đó, thấy ông yếu, nằm trên giường, khi có khách, ông ngồi cao hơn để tiếp chuyện. Gần đó có cái điện thoại. Ông nói, nhờ cái điện thoại này mà ông vẫn tiếp tục làm việc với các cộng tác viên bên ngoài dù không đi lại được nữa. Ông “khoe” đã làm xong mấy trăm hồ sơ bệnh án tâm lý trẻ em rồi, đã ra được một tập san chuyên ngành, đã tổ chức các chi nhánh NT (Nghiên cứu Tâm lý) nơi này nơi khác… Lúc đó tôi đang làm cuốn thuật ngữ về HIV/AIDS, nên trong lúc nói chuyện tôi hỏi ông về vài từ liên quan đến tình dục, tình yêu. Ông nói, trong lúc tiếng Pháp chỉ có 1 từ Amour thì ta có đến 4 từ: Tình duyên, Tình dục, Tình yêu, Tình nghĩa mà tiếng Pháp không dịch được từ Tình nghĩa, Tình duyên! Mỗi từ đều có những hàm ý khác nhau nhưng liên quan mật thiết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau. “Người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không” là Tình duyên đó, chữ “duyên” trong Phật giáo. Tôi hỏi tại sao không nói Tình yêu trước, rồi tới Tình dục, theo thứ tự Tình duyên, Tình yêu, Tình dục, Tình nghĩa, ông cười: “Anh nghĩ theo luân lý, còn tôi nghĩ theo tâm lý”.

BS Nguyễn Khắc Viện đã mất vào tuổi 85, lúc 2 giờ 45 phút ngày 10/5/1997 tại Hà Nội. Ông là một nhà trí thức lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam. Ông là một tấm gương kiên nhẫn, gương tranh đấu với một nghị lực phi thường đáng cho thế hệ trẻ học tập. Từ những năm 1942 – 1951, ông đã chịu mổ 7 lần, cắt 8 xương sườn, cắt bỏ hẳn phổi bên phải và một phần ba phổi trái vì bệnh lao, trong thời kỳ chưa có thuốc chữa, các giáo sư Pháp lúc đó nói ông chỉ có thể sống nhiều lắm là 2 năm nữa. Thế mà ông đã sống và làm việc tích cực đến 45 năm sau. Ông sinh ngày 5/2/1913 tại Hương Sơn, Hà Tĩnh: tốt nghiệp bác sĩ ở Paris năm 1939, tham gia phong trào Việt kiều yêu nước từ 1940, về nước từ năm 1963. Ông là người đưa ra một phương pháp dưỡng sinh độc đáo, phương pháp “y võ dưỡng sinh” và một “bí kíp” khí công với 36 chữ mà mọi người có thể thực hành:

Thót bụng thở ra
Phình bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm, chậm, sâu, đều
Bình thường qua mũi
Khi gấp qua mồm
Đứng ngồi hay nằm
Ở đâu cũng được

Và ông dặn: “Nhớ là phải theo thiệt đúng, không được bỏ sót câu nào”.

Trong lúc ngồi viết những dòng này, tôi vẫn còn nhớ cặp mắt sáng quắc của ông, giọng nói tuy chậm nhưng rất rõ ràng của một người đầy dẫy “chân khí” trong người, dù tuổi đã cao, sức đã yếu. Chắc là ông còn muốn tủm tỉm cười dặn thêm “Coi chừng tẩu hỏa nhập ma nếu không theo đúng từng câu từng chữ đó nhé”. Ông thật là một người rất dễ thương!

Đ.H.N

Nguồn: Y Học Cho Mọi Người. Số 13 tháng 8.1997