NGƯỜI MỞ ĐƯỜNG CHO PHẪU THUẬT VÔ TRÙNG. Trần Phương Hạnh

Joseph Lister, người thầy thuốc ngoại khoa đã tìm ra phương pháp sát trùng trong phẫu thuật, bằng cách hủy diệt các mầm bệnh tại vết thương nhờ sử dụng những chất hóa học, từ đó hình thành nên ngành phẫu thuật vô trùng, nghĩa là thực hiện những phương pháp sao cho phẫu thuật được tiến hành trong điều kiện hoàn toàn không có mầm bệnh.

Joseph Lister ra đời ngày 5-4-1827, tại miền quê Essex nước Anh, trong một gia đình khá giả. Ông bố vừa là chủ hãng buôn rượu vừa là người say mê nghiên cứu quang học và đã chế ra nhiều thấu kính, dụng cụ quan sát. Điều này đã ảnh hưởng và kích thích trí tò mò của cậu bé Lister vốn nhút nhát, trầm lặng.

Năm 25 tuổi, Lister tốt nghiệp Đại học y khoa London và làm trợ lý cho William Sharpey, một giáo sư về sinh lý học. Trong thời gian học, Lister có dịp dự buổi phẫu thuật vô cảm của Robert Liston, thực hiện lần đầu tại London, điều này tác động mạnh đến Lister nên anh ngỏ ý muốn trở thành phẫu thuật viên. Được sự giới thiệu của thầy Sharpey, Lister đến Đại học Edinburgh, theo học James Syme, một giáo sư ngoại khoa lâm sàng. Niềm say mê kiên nhẫn học tập của chàng thanh niên Lister đã khiến giáo sư Syme chú ý và quý mến anh.

Năm 29 tuổi, Lister thành hôn với Ignes, con gái của giáo sư Syme. Sau này Ignes không chỉ là người bạn đời mà còn là người giúp việc đắc lực cho Lister trong công việc phẫu thuật và nghiên cứu hàng ngày.

Thời đó, trong bệnh viện, không mấy ai ý thức đầy đủ về công việc phẫu thuật. Người bệnh đến mổ không cần được chuẩn bị sạch sẽ, nhiều khi không tắm trước. Họ nằm trên chiếc bàn gỗ, trần trụi, phẫu thuật viên đứng bên cạnh, vẫn mặc quần áo bình thường như lúc dạo chơi ngoài phố, riêng chiếc áo khoác thì được cởi bỏ để tránh bị văng máu bẩn, vài người “cẩn thận” thì mang thêm chiếc áo choàng cũ… còn đầy vết máu nâu đen. Nếu lỡ vô ý đánh rơi dao mổ thì người phụ tá cuối xuống nhặt rồi trao lại cho ông thầy mổ, hoặc cẩn thận mài sắc con dao mổ trên một… mảnh da bò, giống như bác thợ cạo râu lành nghề! Tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ thường rất cao, vết thương nào cũng có mủ, nhưng chẳng ai để tâm đến chuyện đó, vốn từ xưa vẫn là chuyện thường ngày xảy ra. Tỷ lệ tử vong sau mổ cũng không thấp, vì vậy đã có nhận xét: Bệnh nhân lên bàn mổ có nhiều nguy cơ chết hơn là binh lính ra chiến trận!

Tình trạng bệnh viện Glasgow cũng tương tự như vậy khi Lister đến phụ trách khoa ngoại lâm sàng. Nhiều bệnh nhân sau mổ bị nhiễm trùng nặng, chẳng ai hiểu nguyên nhân vì sao, lại càng không biết cách nào để phòng tránh hiện trạng bi đát này. Lister để tâm chú ý. Ông nhận thấy các vết thương gãy xương kín, mặc dù bị bầm dập nhiều nhưng vẫn dễ lành khỏi. Trái lại, những vết thương hở có rách da thường dễ bị nhiễm trùng nặng, khó chữa khỏi và nguy hại cho tính mạng người bệnh. Vì sao thế nhỉ? Do vết thương có tiếp xúc với không khí ư? Có yếu tố gây nhiễm trùng luôn tồn tại trong không khí chăng? Lister suy nghĩ nhưng chưa tìm được câu trả lời.

Năm 1865, trong một cuộc thảo luận về vấn đề nhiễm trùng với giáo sư hóa học Thomas Anderson, Lister được giới thiệu một cuốn sách nhan đề Nghiên cứu về hiện tượng thối rữa của nhà hóa học người Pháp Louis Pasteur. Lister thật ngạc nhiên và chú ý đến luận điểm của Pasteur cho rằng trong không khí có chứa những mầm vi sinh vật, đây chính là nguyên nhân gây hiện tượng lên men và thối rữa. Phải chăng ở phòng mổ, không khí cũng chứa những mầm đó? Chúng bám vào bàn mổ, dao mổ, quần áo thầy thuốc mổ, và khi lưỡi dao rạch trên da của người bệnh cũng chính là lúc các mầm vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể người bệnh, có thật vậy không? Lister suy nghĩ và ông quyết định phải loại bỏ những mầm vi sinh vật đó, nhưng bằng cách nào nhỉ? Theo Pasteur có thể dùng phương pháp đun sôi để sát trùng, nhưng tại bệnh viện thì thật khó áp dụng như vậy.

Một buổi chiều, trong khi đang dạo chơi, Lister dừng lại trước một bể lớn chứa nước cống của thành phố. Nước đục đen ngòm, trên bề mặt phủ một chất nhầy đặc quánh. Lister cất công tìm hỏi nhiều người, kể cả vị giáo sư hóa học, và được biết chất đó là chất acid carbolic, dùng để thanh khiết, sát trùng. Tháng 3-1865, Lister quyết định thử nghiệm phương pháp sát trùng bằng acid carbolic cho một trường hợp gãy xương đùi hở. Bệnh nhân là một người thợ gầy yếu, chắc khó sống được nếu phải cắt đoạn chi và cũng không thoát chết do nhiễm trùng. Lister bôi đắp acid carbolic và nắn vùng xương gãy, nhưng bệnh nhân chết ngay vì choáng: cuộc thử nghiệm đầu tiên không đạt kết quả mong muốn. Hai tháng sau, Lister lại thử nghiệm một lần nữa trên một bệnh nhi 11 tuổi, bị xe cán gãy chân, xương lòi ở ngoài da. Ông nắn vùng xương gãy, dùng băng tẩm ướt với acid carbolic và thường xuyên thay băng. Vào ngày thứ tư, vốn là thời điểm dễ có nhiễm trùng vết thương, Lister nhẹ nhàng, cẩn thận mở băng: ông ngạc nhiên thấy không có chút mủ nào, vết thương khô sạch. Kết quả tốt đẹp này khích lệ Lister. Trong suốt 18 tháng liền sau đó, ông tiếp tục dùng phương pháp sát trùng để điều trị thêm 11 bệnh nhân nữa, kết quả 8 người khỏi hoàn toàn, 1 người bị hoại thư rồi cũng khỏi, 1 người phải cắt chi, chỉ có 1 người chết.

Tháng 3-1867, trên tờ Lancet, nội san của giới y khoa, Lister thông báo: “Một phương pháp mới để điều trị gãy xương có biến chứng” với 13 trường hợp đều khỏi (trừ 2 người bị chết ngay) trong đó có 7 người bị rách da nặng. Vài tháng sau, ông cho xuất bản chuyên đề Về nguyên tắc sát trùng trong phẫu thuật, để xác nhận những điểm cơ bản của phương pháp mới là hủy diệt các mầm bệnh vào các vết thương hở bằng cách sát trùng.

Những năm sau, nhiều thầy thuốc nhận thấy acid carbolic là một chất độc và khi dùng phải pha loãng tới 1/10 hoặc 1/20. Lister tiếp tục nghiên cứu cải tiến phương pháp sát trùng: ông đề ra cách băng bó vết thương với nhiều lớp gạc có tẩm dịch acid phenic; các dụng cụ phẫu thuật trong dịch sát trùng, thậm chí ông còn sáng chế một máy bơm phun những hạt nước dịch acid carbolic 2% thành một màn sướng mù trong phòng mổ. Trong điều kiện đó, Lister đã mổ thành công một áp xe cho Nữ hoàng Anh Victoria vào năm 1871.

Khi giáo sư Syme qua đời, Lister đã thay thế bố vợ trong chức vụ phụ trách khoa ngoại tại Đại học Edinburgh, lúc này ông 43 tuổi. Đến 50 tuổi, ông được cử làm giáo sư phụ trách khoa ngoại của King’s College tại London. Lúc này phương pháp sát trùng của ông dần dần được các thầy thuốc hiểu rõ hơn.

Năm 1879, tại Hội nghị Quốc tế các thầy thuốc họp tại Amsterdam, hơn 500 nhà khoa học nổi tiếng đã nồng nhiệt chào mừng Lister như người đã chiến thắng được nguy cơ nhiễm trùng trong phẫu thuật. Hai năm sau, một hội nghị tương tự ở London cũng đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với Lister. Sau đó, Lister cũng đã sáng tạo và hoàn chỉnh nhiều dụng cụ phẫu thuật, chính ông mở đầu việc dùng chỉ catgut để khâu mổ và dùng ống cao su để dẫn lưu.

Năm 64 tuổi, Lister xin nghỉ hưu để nhường chức vụ cho những người trẻ tuổi, nhưng ông vẫn hoạt động y học. Năm 68 tuổi, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Hoàng gia Anh. Năm 70 tuổi, ông được phong tước khanh thuộc dòng quí tộc Anh. Vào năm 85 tuổi, Lister qua đời, nhiều thầy thuốc trên thế giới đã đến đưa ông tới nơi yên nghỉ cuối cùng.

T.P.H
Nguồn: Y Học Cho Mọi Người. Số 21 – tháng 4-1998.